Bài 5 (trang 102 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)


Đề bài / Mô tả: 

Bài soạn siêu ngắn cho bài 5 (trang 102 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)

a.-Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

-Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu

-Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ dưới chợ biết vào tay ai

-Chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

-Chiều chiều mây phủ Sơn Trà

Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm

-Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ người yếm trắng dải điều thắt lưng

Mở đầu các bài ca dao như vậy có tác dụng nhấn mạnh và tạo thói quen để người nghe dễ tiếp nhận.

b.

-Các hình ảnh so sánh, ẩn dụ trong những bài ca dao đã học: tấm lụa đào, củ ấu gai, chiếc khăn, ngọn đèn, trăng, sao, mặt trời,....

-Tác giả dân gian lấy các hình ảnh đó trong cuộc sống đời thường, trong thiên nhiên...nâng lên thành hình ảnh ẩn dụ nên dễ cảm nhận, dễ đi vào lòng người.

c. Một số câu ca dao nói về:

-Chiếc khăn, chiếc áo:

   +Gửi khăn, gửi áo, gửi lời

Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa

   +Nhớ khi khăn mở trầu trao

Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình

- Nỗi nhớ của những đôi lứa đang yêu:

   +Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than

- Biểu tượng cây đa, bến nước – con thuyền, gừng cay - muối mặn:

   +Thuyền ơi có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền

   +Cây đa cũ, bến đò xưa

Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ.

   +Tay nâng chén muối, đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

d. Một vài bài ca dao hài hước:

-Xắn quần bắt kiến cưỡi chơi

Trèo cây rau má đánh rơi mất quần.

-Ngồi buồn đốt một đống rơm

Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào

Khói lên đến tận Thiên Tào,

Ngọc Hoàng phán hỏi: Thằng nào đốt rơm?


Bình luận