- Hai câu thơ là lời cảm thán của Kiều khi đứng trước nấm mồ lạnh lẽo của Đạm Tiên, đó cũng là lời than thở của Nguyễn Du trước nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng.
- "Đau đớn thay": Lời thơ như một lời thở dài đầy đau xót của tác giả.
Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thúy Kiều: “Khi lại lắng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng tía cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ càng tê lưỡi...” Thúy Kiều đã trải qua hầu hết những đau khổ của người phu nữ dưới chế độ phong kiến; gia đình li tán, tình yêu tan vỡ, làm gái thanh lâu, làm nô tì, làm vợ lẽ, tu hành bất đắc chí, và rồi cuộc đời hầu hết không chồng, không con giữa 30 tuổi xuân.
a. Tâm trạng của Thúy Kiều khi tìm gặp Kim Trọng để thề nguyền:
- Kiều quay lại tìm Kim Trọng lần hai, chứng tỏ rằng tình yêu của nàng đang ở độ mặn nồng và sâu sắc nhất, nỗi nhớ đã bộc lộ ra bằng hành động để chứng minh.
Đại thi hào Nguyễn Du viết nên kiệt tác Truyện Kiều giống như đã đóng góp viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. Lật dở từng trang truyện Kiều giống như từng chặng đường đời của người con gái “hồng nhan bạc mệnh” thân phận chịu nhiều đau thương, mất mát. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là đoạn trích bi ai nhất về nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa.
- Vấn đề sử dụng ngôn ngữ: luôn được văn thi nhân quan tâm. Nó là điều làm nên sự sống còn của tác phẩm.
- Thế nào là ngôn ngữ nghệ thuật: còn là ngôn ngữ văn chương, ngôn từ: văn học đòi hỏi phải có tính gợi hình, gợi cảm. Đó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn để đạt hiệu quả thẩm mĩ cao.
1. Ngôn ngữ nghệ thuật trước hết đảm bảo chức năng thông tin
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên và vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật trong đoạn trích.
b. Thân bài.
- Vấn đề sử dụng ngôn ngữ: luôn được văn thi nhân quan tâm. Nó là điều làm nên sự sống còn của tác phẩm.
- Thế nào là ngôn ngữ nghệ thuật: còn là ngôn ngữ văn chương, ngôn từ: văn học đòi hỏi phải có tính gợi hình, gợi cảm. Đó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn để đạt hiệu quả thẩm mĩ cao.
1. Ngôn ngữ nghệ thuật trước hết đảm bảo chức năng thông tin
Đoạn trích Trao Duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là sự cậy nhờ của Kiều với em là Thúy Vân. Thúy Kiều cậy nhờ em thay mình trả mối ân tình cho Kim Trọng, hoàn thành lời hẹn ước gắn bó trăm năm để rồi nàng phải bán mình cứu cha và em giữ chọn chữ hiếu.
- Giới thiệu vài nét đặc sắc nhất về tác giả, tác phẩm và vị trí của đoạn tích.
- Dẫn dắt đặt vấn đề
2. Thân bài:
- Đoạn 1: Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
(“Cậy em em có chịu lời…phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”)
+ Kiều nhờ cậy Vân, lời nhờ cậy có sắc thái khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa). Lời xưng hô của Kiều vừa như trông cậy, vừa như nài ép, phù hợp để nói về vấn đề tế nhị “tình chị duyên em”.
Đây là đoạn thơ miêu tả tâm trạng đau đớn, ê chề của Thúy Kiều sau khi buộc phải làm kĩ nữ, tiếp khách ở lầu xanh. Khi biết rơi vào nhà chứa, Kiều đã tự tử, nhưng không chết. Nàng định liều chạy trốn theo Sở Khanh nhưng lại bị Sở Khanh lừa, bị Tú Bà bắt lại, đánh đập tàn nhẫn, cuối cùng buộc phải tiếp khách.
Kiều là một cô gái đẹp, cho nên nàng phải tiếp khách liên tục, cơ hồ như không dứt ra được.
Đoạn trích Trao duyên biểu hiện bi kịch tình yêu tan vỡ và cũng chính là bi kịch của số phận con người nói chung và người phụ nữ nói riêng trong xã hội cũ. Đây là một trong những đoạn thơ ứa máu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Trong đoạn trích, nhà thơ đã thể hiện thành công mối quan hệ giữa lí trí và tình cảm, Từ đó bộc lộ nhân cách và thân phận của nhân vật chính trong truyện.
Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng ấy của ông được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm "Truyện Kiều", tiêu biểu nhất là ở đoạn trích "Trao duyên". Đoạn trích này đã thể hiện những tâm trạng, cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân "chắp mối tơ thừa" với Kim Trọng.
Truyện Kiều là một trong những kiệt tác hàng đầu của văn học dân tộc ở mọi thời đại, kết tinh nhiều giá trị vĩnh cửu. Truyện được sáng tác bởi Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc.
Nguyễn Du dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, đời Thanh ở Trung Quốc để sáng tạo ra Truyện Kiều. Truyện gồm 3254 câu thơ lục bát, là kiệt tác số một của nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
- Hoàn cảnh của Thúy Kiều khi phải trao duyên cho em
- Nàng Kiều đã lựa chọn chữ hiếu, hi sinh chữ tình, khi ấy nàng đã coi như mình không còn tồn tại trên cõi đời này nữa, lời nói của nàng như là nước mắt, là máu rỉ ra trong lòng.
Khi trao duyên cho Vân. Kiều đã nhắc đến những kỉ niệm của tình yêu: hai người tặng quạt cho tặng để hẹn ước trăm năm Khi ngày quạt ước; uống chén rượu để thề nguyền chung thủy khi đêm chén thề; kỉ vật của tình yêu Chiếc vành với bức tờ mây; đêm thề nguyền với mảnh hương nguyền, và cảnh nàng đàn cho Kim Trọng nghe phím đàn, so tơ phím này.
Khi trao duyên cho em, Kiều nhắc nhiều đến những kỉ vật của tình yêu giữa nàng với Kim Trọng. Vì vậy, cần hiểu rõ các kỉ vật ấy (tức là để hiểu rõ tình yêu của Kiều) trong các câu thơ:
- Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề: sau lần Kim Trọng nhặt được kim thoa Kiều đánh rơi chàng đem trả lại, hai người càng yêu nhau hơn và họ Một lòng vâng tạc đá vàng thủy chung, rồi trao quạt, kim thoa cho nhau làm lời hẹn ước trăm năm:
Ngày xưa có ba mối quan hệ trong xã hội rất được đề cao và tôn trọng. Ba mối quan hệ ấy thuộc phạm vi đạo đức, lối sống (đạo) và gói gọn trong ba chữ quân, sư, phụ. Quân là đạo của bề tôi đối với vua. Sư là đạo của học trò đối với thầy dạy học, phụ là đạo của con cái đối với cha mẹ.