- Điểm chung: đều tồn tại lâu dài trong thời kì VHTĐ và đều đạt được những thành tựu to lớn cho nền văn học dân tộc.
- Điểm riêng:
+ Văn học chữ Hán: xuất hiện sớm, tồn tại suốt quá trình phát triển VHTĐ; thể loại tập trung chủ yếu vào các thể loại văn học từ Trung Quốc; đạt được thành tựu to lớn trên mọi loại hình thơ, văn xuôi, trữ tình, chính luận.
+ Văn học chữ Nôm: ra đời và tồn tại từ cuối thế kỉ XIII đến hết thời kì VHTĐ; chủ yếu tập trung vào thể loại thơ và là các thể thơ dân tộc; đạt nhiều thành tựu to lớn.
VD: Hịch tướng sĩ (Lòng căm thù giặc sâu sắc; Cảnh tỉnh và kêu gọi, khuyên nhủ các tướng sĩ từ bỏ cuộc sống ăn chơi, thái độ bàng quan để đánh giặc cứu nước…).
+ Chủ nghĩa nhân đạo,
VD: Chuyện người con gái Nam Xương (đề cao những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương, cảm thông với số phận bất hạnh của nàng và phản ánh sự hà khắc của xã hội cũ đối với người phụ nữ).
+ Tính quy phạm: coi trọng mục đích giáo huấn, tư duy theo kiểu mẫu nghệ thuật sẵn có, quy định chặt chẽ trong thể loại, dùng nhiều thi liệu cổ, tính ước lệ, tượng trưng.
+ Sự phá vỡ tính quy phạm: những tác giả tài năng trong VHTĐ vừa tuần thủ tính quy phạm vừa phá vỡ nó, phát huy cá tính sáng tạo trong nội dung và hình thức.
- Khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị:
+ Khuynh hướng trang nhã: hướng tới cái cao cả, đề cao vẻ đẹp tao nhã, sử dụng chất liệu ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt.