Văn học Việt Nam gồm hai bộ phận lớn: Văn học dân gian và Văn học viết. Hai bộ phận văn học này đều mang những đặc điểm truyền thống của văn học Việt Nam, đó là: tinh thần yêu nước chống quân xâm lược, tinh thần nhân văn, đề cao đạo lí, nhân nghĩa. Nhưng cũng có những đặc trưng riêng:
a. Những nội dung lớn của văn học Việt Nam trong quá trình phát triển: chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo, cảm hứng thế sự.
b. Văn học viết Việt Nam trong ảnh hưởng qua lại với các yếu tố truyền thống dân tộc (văn học dân gian cũng chịu ảnh hưởng ngược lại của văn học viết để trở nên trau chuốt, hoàn thiện hơn):
- Văn học viết thẩm thấu và chịu ảnh hưởng của văn hóa dân gian, văn học dân gian. VD: thơ ca Nguyễn Du, Nguyễn Bính thể hiện sự tiếp thu ca dao:
a. Văn học viết Việt Nam từ thế kỉ X đến hết XIX gồm hai thành phần: văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm. Văn học thời kì này phát triển thành 4 giai đoạn: từ thế kỉ X đến XIV, XV đến XVII, XVIII đến nửa đầu XIX và nửa cuối XIX.
- Đặc điểm nội dung của văn học trung đại: chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo, cảm hứng thế sự.
a. Phân tích nội dung yêu nước qua các tác phẩm đã liệt kê: SGK/148
- Gắn với tư tưởng trung quân ái quốc:
- Tình yêu thiên nhiên, cảnh trí nước nhà: tình yêu và nỗi nhớ quê nhà trong bài Hứng trở về, bức tranh ngày hè sống động chan chứa tình yêu quê hương trong Cảnh ngày hè.
a. So sánh ba thiên sử thi: Đăm Săn (Việt Nam), Ô-đi-xê (Hi Lạp), Ra-ma-ya-na (Ấn Độ)
- Giống: đều phản ánh những đề tài lớn lao, những vấn đề chung của cộng đồng; đều xây dựng những hình tượng nhân vật có sức mạnh và vẻ đẹp đại diện cho cộng đồng; đều có yếu tố thần linh huyền bí.
- Khác:
+ Đăm Săn: có quy mô khiêm tốn hơn, phản ánh đề tài chiến tranh với hình tượng người tù trưởng anh hùng có sức mạnh vô biên.