Quan Âm Thị Kính - Môn Ngữ Văn - Lớp 7 - Tập 2

Xemloigiai.net giới thiệu bài soạn siêu ngắn cho Quan Âm Thị Kính, Bài 29, Soạn văn 7 siêu ngắn, Tập 2

Bố cục: 3 phần

- Phần 1 (Từ đầu ... đến thấy sự bất thường): Hạnh phúc gia đình.

- Phần 2 (Tiếp ... đến Đi! Đi vào đi): Nỗi oan giết chồng.

- Phần 3 (Còn lại): Thị Kính quyết đi tu.

Bài Tập / Bài Soạn: 

Câu 1 trang 120 sgk Ngữ văn 7, tập 2

Tóm tắt:

     Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo, nhìn chồng ngủ thấy sợi râu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm.

Câu 3 trang 120 sgk Ngữ văn 7, tập 2

- Đoạn trích Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật: Thiện Sĩ, Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông.

- Hai nhân vật chính thể hiện xung đột kịch là: Sùng bà và Thị Kính.

- Sùng bà thuộc loại nhân vật “mụ ác”, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến; Thị Kính thuộc loại nhân vật “nữ chính”, đại diện cho phụ nữ lao động, người dân thường.

Câu 4 trang 120 sgk Ngữ văn 7, tập 2

- Khung cảnh ở phần đầu đoạn trích là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng.

- Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính, ta thấy Thị Kính rất ân cần, dịu dàng, hết lòng yêu thương chồng và tình cảm đối với chồng rất chân thật, tự nhiên.

Câu 5 trang 120 sgk Ngữ văn 7, tập 2

- Hành động Sùng bà tàn nhẫn, thô bạo: “dúi đầu Thị Kính xuống”, “bắt Thị Kính ngửa mặt lên”, “không cho Thị Kính phân bua”, “dúi tay đẩy Thị Kính khuỵu xuống”.

-  Ngôn ngữ của Sùng bà toàn những lời đay nghiến, mắng nhiếc, xỉ vả. Trong lời mắng chửi luôn mang nặng tư tưởng khác biệt giai cấp, môn đăng hộ đối.

+ Giống nhà bà đây giống phượng giống công - Tuồng bay mèo mả gà đồng.

+ Nhà bà đây cao môn lệnh tộc - Mày là con nhà cua ốc.

+ Trứng rồng lại nở ra rồng - Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

Câu 6 trang 120 sgk Ngữ văn 7, tập 2

- Trong đoạn trích có 5 lần Thị Kính kêu oan.

- Bốn lần kêu oan hướng về chồng và mẹ chồng nhưng không nhận được sự cảm thông.

- Lần kêu oan thứ năm: kêu oan với cha mẹ ruột thì tiếng oan mới nhận được cảm thông, tuy rằng đó là lời thở than đau khổ và bất lực.

Câu 7 trang 120 sgk Ngữ văn 7, tập 2

- Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng ông và Sùng bà còn làm một điều tàn ác là: dựng lên một vở kịch lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, thực ra bắt ông sang nhận con về, làm cho cha con Mãng ông nhục nhã. Hơn thế, còn thể hiện bằng những hành động vũ phu với cha con họ.

- Xung đột kịch cao nhất ở cảnh Mãng ông bị giúi ngã. Vì với xung đột này, Thị Kính bị đẩy lên tột cùng nỗi đau: oan ức, tan vỡ gia đình mà còn liên lụy đến cha.

Câu 8 trang 120 sgk Ngữ văn 7, tập 2

- Tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà:

+ Lưu luyến, đau khổ khi phải xa chồng, khi chịu oan ức.

+ Ngậm ngùi xót xa cho duyên phận hẩm hiu, số phận bất hạnh của mình.

- Việc Thị Kính quyết tâm "trá hình nam tử bước đi tu hành" có ý nghĩa như một con đường giải thoát:

+ Tích cực: phải tiếp tục sống ở đời mới mong tỏ rõ người đoạn chính.

+ Tiêu cực: cho rằng mình khổ do số kiếp nên tìm đến cửa Phật. Đó chỉ là hành động cam chịu chứ không phải đấu tranh.

Câu 1 trang 121 sgk Ngữ văn 7, tập 2 - Luyện tập

Vào một buổi tối, Thiện Sĩ đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi may vá bên cạnh rồi quạt cho chồng. Trong lúc đó, nàng đã phát hiện ra dưới cằm chồng có cái râu mọc ngược. Nàng nghĩ đây là điềm chẳng lành, nên đã cầm dao khâu định xén nó đi. Chưa kịp xén thì Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy và hô hoán lên. Sùng ông và Sùng bà vốn không ưa Thị Kính nên đã đay nghiến, mắng nhiếc và đổ cho Thị Kính tội giết chồng. Mặc cho Thị Kính một mặt kêu oan, van xin nhưng Sùng ông và Sùng bà đã gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang và làm cho hai cha con phải nhục nhã, khổ sở.

Câu 2 trang 121 sgk Ngữ văn 7, tập 2 - Luyện tập

Chủ đề của đoạn trích nỗi oan hại chồng: đoạn trích thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của Thị Kính và những nỗi oan, bế tắc của nàng cũng như của không ít người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó phản ánh những đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến. Thành ngữ “Oan Thị Kính” đã được phổ biến rộng rãi trong đời sống hằng ngày của nhân dân lao động. Mọi người dùng thành ngữ này để nói lên những nỗi oan khuất quá mức, cùng cực không thể nào giải toả được của con người nói chung.


Giải các môn học khác

Bình luận

Bài 1

Bài 2

Bài 3

Bài 4

Bài 5

Bài 6

Bài 7

Bài 8

Bài 9

Bài 10

Bài 11

Bài 12

Bài 13

Bài 14

Bài 15

Bài 16

Bài 17

Bài 18

Bài 19

Bài 20

Bài 21

Bài 22

Bài 23

Bài 24

Bài 25

Bài 26

Bài 27

Bài 28

Bài 29

Bài 30

Bài 31

Bài 32

Bài 33

Bài 34