Hộ nghèo với tinh thần yêu nghệ thuật (nt) nồng nàn nhưng lại bị giằng xé nội tâm một cách đau đớn. Cùng giở lại những trang sách, nhìn lại những nhân vật Hộ đáng thương để hiểu hơn tấn bi kịch của anh và cũng chính tấn bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám. Nhà văn Hộ sống quằn quại, đau khổ trước sự nghiệp dở dang vì nỗi lo cơm áo gạo tiền. Anh mong muốn đem ánh sáng vào nghệ thuật bằng chính trái tim đầy nhiệt huyết nhưng cuối cùng phải sống trong bóng tối vô danh, một cuộc sống ê chề, thừa thải, chán ngấy.
I. MỞ BÀI Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một cây bút xuất sắc của văn học hiện thực phê phán trước năm 1945. Nhà nhân đạo ấy đã để lại cho đời những tác phẩm thật sự có “tấm lòng lớn” như “Đời thừa”, “Chí Phèo”. Trong đó, “Đời thừa” thực sự đã để lại dấu ấn của Nam Cao về giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ.
Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc đã thấy được bi kịch của kiếp “tài hoa bạc mệnh”, ở Chí Phèo của Nam Cao, là bi kịch của những khát khao lương thiện và cũng với Nam Cao ta gặp ở Đời thừa, tấn bi kịch tinh thần của người tri thức. Đời thừa bộc lộ rõ né “tư tưởng nhân đạo mới mẻ độc đáo của nhà văn lớn Nam Cao”.
Truyện tập trung vào bi kịch nhân vật Hộ. Đó là bi kịch của người trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Hộ đã khao khát làm được một việc gì đó để nâng cao giá trị của mình trước toàn xã hội, muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa mà cuối cùng chỉ vì gánh nặng áo cơm ghì sát đất mà phải sống một “đời thừa”, những khao khát bị tiêu diệt, những tâm tính tốt nhất cũng bị hủy hoại. Ở Hộ có hai bi kịch cơ bản:
- Lối viết tự nhiên, dung dị không có dáng vẻ tân kì, nhưng đó là sự dung dị của cây bút già dặn.
- Cốt truyện đơn giản, khung cảnh hẹp, nhân vật ít hành động. Tác giả khai thác những chi tiết bình dị của cuộc sống để khái quát thành những vấn đề có tính nhân sinh sâu sắc.
- Truyện có sắc thái chân thật, đậm triết lí trong cuộc sống.
- Qua nhân vật Hộ, Nam Cao thể hiện quan điểm tiến bộ về nghệ thuật. Quan điểm ấy có tầm vóc và chiều sâu của một nhà văn tự giác về những nguyên tắc sáng tác hiện thực và nhân đạo.
1. Từ khi viết những tác phẩm đầu tiên (1936) cho đến khi ngã xuống trên đường đi công tác (1951) Nam Cao cầm bút vỏn vẹn có 15 năm. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, ông đã làm nên sự nghiệp của một đời văn. Người ta xem ông là nhà văn hiện thực xuất sắc, là nhà văn hàng đầu Việt Nam thế kỉ XX.
a. Trước hết, đó là bi kịch của người trí thức có ý thức về sự sống, muốn tự khẳng định mình trong cuộc đời bằng một sự nghiệp có ích cho xã hội cũng tức là muốn nâng cao giá trị đời sống của mình. Thế nhưng, cuối cùng bị gánh nặng cơm áo hằng ngày đè bẹp, phải chịu cuộc sống vô ích, buồn chán thành kiếp “đời thừa”.
Văn sĩ hộ mang nhiều nét tiêu biểu hay cũng như dở của tính cách một trí thức nghệ sĩ có tâm huyết, tài năng.
1. Nét hay
Trước hết Hộ là một nhà văn tự trọng, có ý thức sâu sắc về nghề văn, nên viết thận trọng. Vì Hộ quan niệm rằng sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Cho nên hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán.
Tôi đã từng đọc những truyện ngắn trữ tình, đầy chất thơ của Thạch Lam khi ông viết Cô hàng xén, Tối ba mươi, Dưới bóng hoàng lan... để hiểu vì sao người ta coi trang văn của ông là những trang thơ ngọt ngào, đằm thắm, tinh tế và dịu nhẹ. Tôi cũng từng đọc tùy bút Nguyễn Tuân khi ông viết Tờ hoa, Người lái đò sông Đà... để biết do đâu người ta nhận xét trang văn của Nguyễn Tuân là những trang hoa và mĩ từ được sử dụng một cách khéo léo và tinh tế.
Trong cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn suy nghĩ, trăn trở về sống và viết. Điều này thể hiện rõ nét trong tác phẩm của ông suốt từ trước đến sau Cách mạng, trở thành hệ thống quan điểm sáng tác của ông. Nhiều tác phẩm của ông được coi là tuyên ngôn nghệ thuật với những quan điểm tiến bộ và sâu sắc. Trong đó, Đời thừa là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.
a. Học sinh có thể giải thích tiêu đề “đời thừa” là cuộc đời hoàn toàn vô ích, không ai cần tới, cuộc đời phải bỏ đi cho xã hội khỏi vướng bận.
b. “Đời thừa” là một bước đi của Nam Cao về hướng cách mạng, đây là cách nhìn mới của nhà văn, giới nào cùng có thể “thừa” ngay cả giới văn nghệ sĩ chân chính khi gặp khó khăn. Nguyên do không những ở xã hội mà ngay ý thức trách nhiệm cá nhân là chính.
1. Truyện ngắn Đời thừa đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy số 409 ra ngày 4/12/1943.
2. Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người.